WELCOME TO THIENQUANG
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần1)

Go down

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần1)       Empty Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần1)

Bài gửi  Lý Nhã Uyên Mon Jan 02, 2012 2:28 pm

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần1)
04/09/2007


Bill Gates (phải) thời đi họcMỘT NGƯỜI KHÔNG GIỐNG NHIỀU NGƯỜI

William Henry Gates III (Bill Gates) là con trai duy nhất một gia đình danh giá ở Seattle. Cụ cố nội là người sáng lập Ngân hàng Quốc gia thành phố Seattle, từng là bạn thân của chính khách huyền thoại William Jennings Bryan và John Pershing - vị tướng lừng danh quân đội Mỹ thời Thế chiến thứ nhất.

Đứa trẻ khác biệt

Thống đốc Robert Evans là bằng hữu của gia đình, tương tự là Brock Adams - vị nghị sĩ Mỹ từng thuê cậu bé 16 tuổi Bill Gates giúp việc cho mình tại văn phòng Quốc hội.

Mẹ cậu là người mà báo chí địa phương gọi là “nhân vật vai vế” (có chân trong Tổ chức United Way; quản trị viên một trường đại học; giám đốc Ngân hàng West Coast).

Cha cậu được miêu tả là “nhân vật trụ cột của công chúng”, William H. Gates II (Bill Gates bố) cũng là chủ tịch một hãng luật. Mẹ Gates còn là bạn thân của Katharine Graham (cố chủ bút tờ Washington Post). Gia đình Gates trung thành với Đảng Cộng hòa.

Người ta kể rằng Gates đã đọc nát như cháo từ A-Z một bộ bách khoa toàn thư khi chưa đầy 10 tuổi. Có lúc bố mẹ đã đưa Bill Gates đến gặp một nhà tâm thần học. “Nó rất khác biệt so với bọn trẻ lớp 6 khác - bà mẹ thở dài - Nó sẽ ngồi ghế sau xe, đúng ở chỗ kia cơ chứ không phải chỗ khác, cứ như thể ngân hà sẽ biến mất nếu nó làm khác đi”.

Bà Mary Gates hỏi con trai: “Con đang làm gì thế?” và con trai bà thường trả lời: “Con đang suy nghĩ, mẹ ạ”. “Ông bà sẽ thua cuộc đấy” - nhà tâm thần học nhận xét. “Ông bà nên điều chỉnh từ từ bởi nếu đánh đập sẽ chẳng nên cơm cháo gì”.

Gia đình đã lên kế hoạch gửi cả ba đứa con đến trường công lập, nhưng cuối cùng bố mẹ Gates đã áp dụng ngoại lệ đối với đứa con giữa khó hiểu của mình. Họ cho nó học lớp 7 tại Trường Lakeside, ngôi trường con trai tốt nhất trong vùng.

Mở bất kỳ cuốn kỷ yếu nào của Trường Lakeside từ năm 1967-1972, chọn bất kỳ cái tên nào, bạn cũng có thể an tâm khi đặt cược rằng người đó chắc chắn nhớ đến một thằng bé sáng sủa tên Gates, thường xuyên rị mọ trong phòng vi tính của trường.

Có bạn học nhận xét “nó thông minh một cách đáng sợ”; đứa khác nói rằng nó là thằng nhóc không biết cách cư xử, khoái màn ôm bụng cười lăn cười bò mỗi khi có bạn trong lớp trả lời sai câu hỏi của thầy. “Kiêu ngạo” là từ được dùng nhiều hơn bất kỳ từ nào khác khi các bạn tiểu học kể về Gates.

Hãy cố gắng bán một cái gì đó đi!

Lo sợ có thể thằng bé không bao giờ dứt khỏi vi tính, bố mẹ yêu cầu nó thôi học vào năm 14 tuổi, tạm ngưng trong chín tháng. Thằng bé chuyển sang nghiên cứu tiểu sử, từ Napoleon đến Franklin D. Roosevelt; đọc tờ Business Week của bố theo cái kiểu mà những đứa trẻ khác khoái trá chui vào gầm giường nghiền ngẫm Playboy.

Bill Gates không hẳn là đứa trẻ ngồi lì cả buổi chiều ở Trung tâm máy tính Lakeside nhưng chắc chắn nó là đứa tham vọng nhất. Chính “tinh thần thầu khoán” đã làm nó khác hẳn đồng bạn. Trong khi hầu hết trẻ trang lứa sẵn lòng chơi trò tic-tac-toe, Gates thì nói: “Hãy trở lại với thế giới thực và cố gắng bán một cái gì đó đi”.

Trong thời gian từ lớp 8-11, Gates đã thử kinh doanh không dưới ba lần. “Chúng tôi muốn mở rộng lực lượng lao động” - Gates tuyên bố và khởi đầu tìm những học sinh sẵn sàng làm công việc đục lỗ phiếu với tiền công vài xu/giờ (đối tác của hai trong số ba công việc làm ăn là người đồng sáng lập Microsoft - Paul Allen).

Với Bill, điều đó chưa bao giờ là vì tiền. Đó là những lời mà luật sư của Gates tuyên bố ngay khi xuất hiện bài báo đầu tiên nói về gia sản kếch sù tạo dựng trong chớp mắt của ông. “Điều Bill quan tâm nhất là làm sao viết được những phần mềm vĩ đại” - nhân viên phòng quan hệ đối ngoại Microsoft tuyên bố.

“Đối với Bill, tất cả chỉ là phần thưởng chiến thắng trước đối thủ, còn tiền bạc là chuyện nhỏ” - những người tự cho rằng mình hiểu rõ Gates hơn ai hết đã nói như vậy. Người ta đã không chú ý tới đám bạn bè thời thơ ấu của Gates, những người còn nhớ như in rằng Bill Gates từng tuyên bố kiếm được tiền triệu trước năm 25 tuổi hoặc chuyện Bill bỏ dở Đại học Harvard chỉ vì sợ cơ hội kiếm tiền quan trọng tuột đi mất.

Đứa trẻ lớn

Một người đại diện bán hàng Microsoft từ năm 1982 kể rằng Bill có trí tuệ của một cụ già và bản năng của một đứa bé. Gates mua xe không có radio vì theo anh, radio làm sao nhãng công việc. Cũng lý do đó, Gates không mua tivi cho mãi tới thời gian gần đây.

Là người thuận tay trái, Gates vẫn luyện viết tay phải ngay trong cuộc họp hoặc những lúc không làm việc mà anh gọi là “chu kỳ trí tuệ”. Phóng viên tờ People từng để ý một bản đồ châu Phi được gắn trong gara tại vị trí mà mắt Gates có thể lướt qua khi ngồi vào hay bước ra xe.

“Trí óc của bạn còn nhiều dải rộng chưa bao giờ được dùng đến” - Gates giải thích. Gates thậm chí có vẻ giống chiếc máy tính, như trong một lần phát biểu với báo chí: “Về phương diện phân phối thời gian, tôn giáo không tỏ ra hiệu quả”.

Theo như những gì cánh báo chí biết, anh ghét ngày nắng đẹp vì sở thích du lịch trong thời gian này sẽ làm hao phí quĩ làm việc của các nhân viên mẫn cán. Trong một cuốn tiểu sử của Gates, tác giả kể rằng anh bị cuốn vào công việc đến nỗi mẹ anh không chỉ chọn ngôi nhà cho anh mà còn tự sắp xếp đồ đạc và trang trí khi anh ở Nhật Bản.

Mặc dù Gates sống cách gia đình chỉ 20 phút đi xe, bà mẹ tội nghiệp vẫn luôn gửi thư và bưu thiếp cho con, và không biết rằng chúng bị xếp thành đống ở góc bàn. Bà cụ cũng liên tục nhắc Gates phải gội đầu và có khi cụ làm phiền tới mọi người trong công ty khi hỏi đi hỏi lại: “Nó tự chăm sóc bản thân được không?”.

Thậm chí bà còn mua quần áo cho con và giúp chọn màu sắc thích hợp bằng cách kẹp ghim thành từng bộ với nhau.

Bill Gates thuê trợ lý hành chính nhưng họ thường đảm đương cả phần “hậu cần” - theo lời nguyên trợ lý Estelle Mathers. Nếu biết Bill có cuộc họp lên lịch sẵn vào sáng sớm, Mathers luôn gọi về nhà để đánh thức anh. Cô cũng lái xe đưa anh ấy ra sân bay và tư vấn luôn về trang phục cho từng cuộc hẹn.

Trước buổi tiệc lớn, cô nhắc anh chải tóc... Có trí nhớ phi thường (có thể đọc một mạch và nhớ từng chi tiết kế hoạch kinh doanh của các đối thủ!) nhưng Bill thường quên hành lý tại khách sạn, chẳng hạn một hợp đồng quan trọng, tập séc du lịch trị giá hàng ngàn USD, vali quần áo...

Gates thích ngồi ghế bình thường trên máy bay thay vì ghế hạng nhất. Hơn nữa, anh cũng không thích xe sang trọng. Trong thời gian dài, Gates không chấp nhận bãi đậu xe riêng cho đến đầu thập niên 1990...

<First News biên dịch>

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần2)
05/09/2007
NHỮNG BƯỚC ĐI ĐẦU TIÊN
Gia đình Gates đi lễ ở nhà thờ thuộc giáo đoàn University Congregational Church của mục sư Dale Turner. Hằng năm, mục sư Turner đều có lời hứa sẽ đãi một bữa ăn tối tại nhà hàng Space Needle, cao gần 200m, ở Seattle, cho những em đang học lớp giáo lý của nhà thờ có thể thuộc lòng đoạn Bài giảng trên núi (Sermon on the mount).
Người ưa sự thách thức

31 đứa trẻ khác tuy đọc được các chương 5, 6 và 7 của sách Matthew nhưng vẫn còn vấp váp, khi đến lượt Gates, cha Turner thật sự kinh ngạc khi cậu bé đọc thuộc làu làu và càng kinh ngạc hơn khi biết cậu đã học các đoạn này khi đang trên đường đi ra bãi biển cùng gia đình.

Mục sư nói: “Chỉ cần tới nhà cậu bé ngày hôm ấy là tôi biết ngay rằng cậu bé này có điều gì đó rất đặc biệt. Tôi không thể tưởng tượng nổi là vì sao một đứa bé 11 tuổi lại có một trí tuệ như vậy. Qua các câu hỏi kiểm tra lại, tôi phát hiện cậu bé không chỉ thuộc lòng mà còn hiểu rất sâu sắc đoạn kinh thánh đó”.

Nhưng mục sư Turner cũng phải thừa nhận rằng có lẽ Gates học thuộc đoạn kinh thánh này không phải vì đức tin mà chỉ vì ưa thích sự thách thức. Sau này Gates cũng nói:

“Khi bước vào tuổi trưởng thành, cha mẹ tôi thường khuyến khích các con đọc sách thật nhiều và cổ vũ tính độc lập suy nghĩ của chúng tôi. Hai người thường kéo chúng tôi vào mọi cuộc thảo luận trong bất cứ đề tài nào, từ nội dung của một quyển sách nào đó cho đến các vấn đề về chính trị.

Vào mùa hè, gia đình chúng tôi cùng một số gia đình khác thường đến nghỉ ở Hood Canal. Ở đấy chúng tôi thường hay chơi các trò chơi có tính cạnh tranh cao như chạy tiếp sức, ném trứng, cướp cờ. Đó là những thời gian luôn bổ ích và mang đến cho chúng tôi cảm giác rằng chúng tôi có thể đua tranh và thành công”.

Câu lạc bộ Các bà mẹ của Trường Lakeside

Các bậc cha mẹ nào còn nghi ngờ việc họ có thể tác động mạnh mẽ đến cách giáo dục con em mình thì nên nhớ đến hiệu quả tuyệt vời từ việc làm của Câu lạc bộ Các bà mẹ ở Trường Lakeside. Vào năm 1967, CLB này sử dụng số tiền thu được từ việc bán đồ cũ để lắp đặt một máy trạm đầu cuối thô sơ để con em mình có dịp tiếp xúc với những công nghệ mới lạ.

(Nói rõ ra thì đó là chiếc máy nhập liệu ASR-33 Teletype, được nối với máy tính chủ General Electric Mark II đặt ở nơi khác. Để con em mình có thể làm việc trên chiếc máy trạm này, các bà mẹ phải trả phí thuê bao mỗi giờ để được phép truy cập vào máy chủ).
Cha của Gates nói rằng cậu con trai học lớp 7 của ông nhanh chóng bị chiếc máy mê mẩn và không rời khỏi nó. Chẳng mấy chốc Gates và các bạn của cậu đã bỏ bê lớp học để cả ngày quanh quẩn tại trung tâm máy tính; đến năm lớp 8, Gates đã có thể kiếm tiền được từ công việc lập trình.

Gần một chục học sinh của Trường Lakeside đã trở thành những người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm vi tính, Bill Gates và Paul Allen - đồng sáng lập viên của Microsoft - là những người nổi bật nhất trong số học sinh này.

Gates dùng thời gian nghỉ hè năm 1972 để trở thành cậu bé chạy văn thư cho quốc hội. Vốn đã có đôi chút kinh nghiệm trong kinh doanh, Gates tiếp tục thể hiện xu hướng này khi kết hợp với một người bạn - Thomas Eagleton - bỏ tiền ra mua 5.000 huy hiệu vận động tranh cử tổng thống của George S. McGovern, với giá 5 xu/cái, sau khi nghị sĩ này bị loại khỏi danh sách đề cử ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ. Những chiếc huy hiệu này sau đó đã nhanh chóng được nhiều người sưu tầm săn lùng. Gates và bạn của anh đã bán những huy hiệu của mình với giá cao gấp nhiều lần, đôi khi lên tới hơn 25 USD/cái.

“Giờ đây khi nhìn lại và suy nghĩ, tôi đã thắc mắc - quái lạ, làm sao mà mình lại đâm ra nghiện cái máy đó như vậy nhỉ? Thật khó hiểu. Thời đó người ta không dùng một đường điện thoại riêng cho chiếc máy nên chúng tôi phải dùng chung đường điện thoại của văn phòng kinh doanh. Vì vậy chúng tôi phải luôn cố tranh giành để được ngồi vào chiếc máy này và thường ở lại cho đến tận trời tối.

Trong khi đó, những người bảo vệ luôn tìm cách tống cổ chúng tôi ra ngoài. Cái máy trạm đâu phải là một máy tính, vì vậy chúng tôi phải quay số điện thoại kết nối với một máy tính ở xa. Một máy tính đúng nghĩa thời đó rất đắt, đến mức người ta chỉ có thể thuê giờ sử dụng thôi. Chiếc máy tính GE mà chúng tôi thường kết nối tới có giá 4 triệu USD”.

Gates không muốn học những môn mình không thích nhưng ngược lại, với những môn đã thích rồi thì anh có khả năng tự học rất nhanh. Năm 13 tuổi, Gates tự học lập trình vi tính. “Tất nhiên, theo suy nghĩ chung thì thầy giáo sẽ say sưa tìm hiểu những gì liên quan đến máy tính rồi sau đó sẽ dạy lại cho học sinh. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Sự việc lại diễn biến theo hướng ngược lại. Có một nhóm học sinh có thể nói là đã tự ý làm thay công việc của các người thầy” - Gates kể.

Rồi Gates bị loại khỏi CLB Những lập trình viên Lakeside chỉ vì nhỏ hơn hai tuổi so với Paul Allen và những thành viên khác trong nhóm. Họ cho rằng Gates chưa đủ chín chắn. Nhưng khi thấy CLB không thể làm được việc gì nếu thiếu cậu nên cả nhóm đã mời Gates nhập bọn lại. Gates ra điều kiện. Và cậu trở thành người đứng mũi chịu sào trong các dự án sau này.

Khi nhóm lập trình viên của phòng máy tính xài hết khoản tiền lớn để trả cho thời gian họ ngồi sử dụng máy tính tại CLB Các bà mẹ thì thiết bị này phải “lên đường” thôi. Tuy nhiên một bà mẹ đã kịp tạo ra cho nhóm một cơ hội thật khó tin.

Trong những năm cuối thập niên 1960, Gates và các thành viên của nhóm lập trình viên Lakeside sử dụng bất kỳ phương tiện nào: xe đạp, xe buýt hoặc đi nhờ xe, để mỗi buổi chiều đi tới văn phòng Công ty Computer Center Corporation (C-Cubed), tại đó, thay phiên nhau, dùng thời gian rảnh của chiếc máy tính Digital Equipment Corporation đời mới, họ truy tìm lỗi lập trình.

Cứ 6g chiều mỗi ngày, khi các nhân viên của C-Cubed xếp hàng ra về cũng là lúc ba cậu học sinh trung học bắt đầu đến. “Chúng tôi thường xuyên ở lại làm việc cho đến hết đêm chỉ bởi chúng tôi quá thích được làm việc với các phần mềm. Đó là thời gian vui thú của chúng tôi” - Allen nhớ lại.

Gates và những người bạn của mình sau đó đã biên soạn một tập sách hướng dẫn dày 300 trang có tên là The Problem Report Book và nó được các chuyên gia lập trình của C-Cubed sử dụng.

Các cậu bé đã nắm lấy cơ hội để lén lút học ngôn ngữ máy tính. “Paul công kênh tôi lên để lục lọi trong các thùng đựng rác và tôi đã nhặt nhạnh những tờ giấy ghi chép lấm lem đầy vết cà phê của các lập trình viên để học về hệ điều hành” - Gates kể.

Sự thèm muốn đi đến tận cùng giới hạn của Gates cuối cùng đã khiến cậu bị rắc rối to khi cậu đột nhập một chương trình được bảo vệ. Mật khẩu của người sử dụng là giấy thông hành trình ra cho máy tính cho biết khu vực nào thì người sử dụng được phép vào và khu vực nào thì không.

Chỉ vì vui thích, Gates đã vòng vèo tránh được khóa bảo mật này và thâm nhập được hệ thống tài chính kế toán và nhiều thông tin bí mật khác của công ty. Việc làm mạo hiểm của cậu đã làm tê liệt hệ điều hành và sau đó bị phát hiện. Cha mẹ cậu đã bắt cậu phải rời xa máy tính và lần này Gates đã nghe lời.

“Trong khoảng thời gian nửa cuối lớp 9 và trọn năm học lớp 10, tôi thề là không đụng đến máy tính nữa. Tôi cố gắng trở thành một cậu bé bình thường và ngoan nhất có thể được”.

<First News biên dịch

Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần 3)
06/09/2007


Bill Gates đang đứng nhìn bạn mình là Paul Allen thao tác trên máy tính trạm TeletypeVƯỢT RA KHỎI LỘ TRÌNH QUY ƯỚC

Không bao lâu sau Gates quay trở lại gặp lúc câu lạc bộ máy tính đang đảm nhận công việc kiếm tiền để trả chi phí sử dụng máy tính. Các thành viên bắt đầu thực hiện dự án sử dụng máy tính để đếm lưu lượng ôtô trên đường.

Những “phi vụ” ban đầu

Traf-O-Data, tên chương trình này, đã mang về cho họ 20.000 USD trước khi các khách hàng của họ tìm nơi cung cấp dịch vụ tinh vi hơn.

Giống như các thiếu niên khác, Gates và bạn bè của mình luôn tìm cách tranh thủ cảm tình từ các giáo viên: “Khi nhận làm công việc sắp xếp lịch học trong trường, chúng tôi tính toán rằng qua đó có thể quyết định một cách chính xác học sinh nam hay nữ nào sẽ vào học ở lớp chúng tôi và điều này là một phần thưởng tuyệt vời. Công việc đó đã thúc đẩy chúng tôi học cách viết các phần mềm thú vị”.

Vào mùa hè đó, Gates và Allen đã kiếm được khoảng 5.000 USD trả bằng giờ sử dụng máy tính nhờ vào việc viết chương trình xếp lịch lớp học.

Một tối, nhân viên của công ty cho thuê thiết bị văn phòng đến văn phòng của C-Cubed và lấy đi những cái ghế mà các cậu bé đang ngồi làm việc. Gates và những người bạn của anh có một bài học sống động trước mắt về ý nghĩa của từ “phá sản”.

Gates và Allen cảm thấy thất vọng khi khó tìm được một máy tính nào khác để làm việc nên cuối cùng Gates và Allen bỏ tiền ra mua một bộ vi xử lý 8008 với giá 360 USD, để hai người cùng với nhóm bạn tự lắp ráp máy tính riêng cho chính mình. Công việc lắp ráp một máy tính đã thuyết phục Gates và Allen rằng họ nên sống chết với công việc kinh doanh phần mềm.

Gates cho đó là điều may mắn: “Khi chúng tôi còn trẻ, Paul Allen đã hướng dẫn tôi rất nhiều về phần cứng máy tính và luôn khuyến khích tôi đặt lòng tin và đánh cược vào bộ vi xử lý. Tôi có may mắn là ngay từ khi còn rất trẻ đã tìm thấy điều mà tôi yêu thích và hấp dẫn tôi - thậm chí đến tận bây giờ. Và tôi cũng may mắn có được song thân luôn động viên khuyến khích”.

Cơ hội được làm công việc lập trình nghiêm chỉnh xuất hiện khi các kỹ sư đang làm việc cho mạng lưới năng lượng Northwest gặp rắc rối, và trong quá trình tìm kiếm câu trả lời họ đã phát hiện tài liệu C-Cubed Problem Report Book. TRW Inc.

Các lỗi xuất hiện ở chương trình đang chạy trên máy PDP-10 đã làm giảm tiến độ phát triển rất nhiều. Tài liệu The Problem Report Book đã chỉ ra và giải thích được rất nhiều lỗi, và người ta đọc được trên tài liệu họ tên của hai lập trình viên đã khám phá các lỗi này - Bill Gates và Paul Allen. Công ty TRW đã tìm ra họ và yêu cầu họ đến Portland, Oregon để phỏng vấn vào làm việc ở công ty.

“Không một ai biết chúng tôi mới chỉ là học sinh lớp 9 và lớp 10”.

Dẫu sao họ cũng được nhận vào làm việc. Gates xin giấy phép nghỉ học tại trường rồi đi tới Portland, tại đây anh và Allen được bố trí riêng một phòng và được phân công làm việc dưới quyền nhà lập trình John Norton. Với khả năng có thể nhớ được một danh sách 5.000 trang của hệ điều hành, Norton đã làm lóa mắt các anh bạn trẻ tài năng vừa mới nhận việc.

Gates thường nói rằng khả năng của Norton đã thách thức mình làm việc tốt hơn: “Trong đầu tôi luôn in đậm hình ảnh của người tên là Norton mà tôi đã gặp tại TRW. Anh luôn chỉ bảo mỗi khi công việc của tôi không đạt đến mức tốt nhất. Vì vậy khi làm việc cẩu thả hoặc lười biếng, tôi liền tưởng tượng thấy anh ấy đến bên tôi, nhìn vào chương trình và nói: Nhìn đây nhé, làm cách này thì tốt hơn đấy”.

Trường Harvard

Bill Gates được nhận vào học ở cả ba trường đại học danh tiếng: Princeton, Yale và Harvard theo chương trình học bổng cấp quốc gia - National Merit Scholar. Anh chọn Đại học Harvard và nhập học vào mùa thu năm 1973. Về nhiều phương diện, Gates là mẫu sinh viên năm thứ nhất điển hình, bị hụt hẫng trước những đòi hỏi mới và mức độ ganh đua gay gắt hơn ở trường đại học.

Anh chểnh mảng việc đến lớp học để suốt ngày vùi đầu vào những dự án riêng của mình trong phòng máy của trường, chơi bài suốt đêm và leo lên giường là lăn ra ngủ chẳng cần phải trải drap giường. Các sinh viên khác nhớ lại anh có thể đi chơi suốt 18-36 tiếng mà không cần ngủ.

Thậm chí ngay tại Harvard, Gates cũng vẫn duy trì kiểu học cũ từ hồi còn ở trung học. Anh học rất giỏi những môn ưa thích và xem thường những môn không say mê. Tâm trí anh dường như không dành cho việc học. Gates rất ít khi tham gia các hoạt động của trường trừ khi người bạn cùng dãy phòng trong ký túc xá, Steve Ballmer, phải hết sức vất vả mới kéo được anh tới các buổi tiệc.

Mặc dù không là học sinh xuất sắc nhất về môn toán ở Harvard, nhưng Gates đã bắt đầu chọn giải toán của sinh viên cao học khi mới học năm thứ nhất và thường được điểm A cao nhất.

Khi việc học ở Harvard làm anh nhàm chán, Gates xin đi làm những công việc có liên quan đến máy tính trong phạm vi bang Boston. Digital Equipment là một trong những công ty anh rất thích đến phỏng vấn xin việc bởi vì ở đây họ dùng trực thăng để đưa những người xin việc từ một sân bay Boston tới trụ sở chính của công ty.

Gates khuyến khích Paul Allen cố gắng tìm kiếm một công việc lập trình tại Honeywell để cả hai cùng có điều kiện tiếp tục thực hiện giấc mơ thành lập công ty phần mềm. Allen và bạn gái anh ta liền lên chiếc xe Chrysler New Yorker cổ lỗ sĩ và đến Boston ngay. Và tất nhiên, chẳng bao lâu nữa cuộc sống của Gates sẽ có một thay đổi bất ngờ.

Một cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi. Paul Allen đã có một phát hiện tuyệt vời vào một ngày giá rét của tháng mười hai khi đi ngang qua sân Trường Harvard sau khi vừa ghé thăm Gates. Trên một quầy báo, anh nhìn thấy trên trang bìa tờ Popular Mechanics, số phát hành tháng 1-1975, có in hình một bộ máy vi tính mới mang tính cách mạng, chiếc máy MITS Altair 8080.

Allen mua ngay một tờ rồi chạy ngược về chỗ Gates để thuyết phục Gates rằng họ nên phát triển một ngôn ngữ riêng cho cỗ máy này.

Chiếc Altair 8080 có 256 byte bộ nhớ (so sánh với 8 triệu hoặc hơn của phần lớn máy tính cá nhân ngày nay) nhưng không có phần mềm.

“Paul cứ luôn miệng nói chúng ta hãy bắt đầu một công ty. Hãy làm việc đó ngay. Chúng tôi nhận ra rằng cuộc cách mạng có thể xảy ra mà không cần đến chúng tôi và vì vậy, sau khi đọc bài báo, mọi câu hỏi về việc lựa chọn đường đi trong cuộc sống của chúng tôi đã được giải đáp”.

Gates và Allen liên lạc với Ed Roberts, người sáng lập Hãng MITS, và hứa hẹn là sẽ cung cấp một chương trình cho máy Altair trước khi họ viết nó. Roberts nhớ lại: “Chúng tôi nhận được khoảng 10 bức thư một ngày. Tôi nói với tất cả rằng hễ ai mà viết xong chương trình này trước tiên coi như người đó đã được đồng ý”. Và hai người bạn lao tới phòng máy tính của Trường Harvard để viết một chương trình mô phỏng bằng ngôn ngữ BASIC.

Sau này nhớ lại, cũng như một số người, Gates coi Altair chỉ là một cái hộp với một hệ thống đèn nhấp nháy. Nhưng Gates còn nghĩ xa hơn: “Công ty MITS đã không hiểu được tầm quan trọng của cỗ máy này. Thật sự chẳng ai hiểu cả, chỉ riêng chúng tôi. Chúng tôi đã nhận ra rằng rồi sẽ có ngày tất cả trường học ở khắp nơi đều phải trang bị chiếc máy tính đó”.

Gates và Allen tin tưởng rằng máy tính sẽ thực hiện được những điều kỳ diệu. Vì vậy khẩu hiệu của hai chàng trai khi mới bắt đầu là “Máy tính có mặt trên mỗi bàn làm việc và trong mỗi gia đình”. Niềm say mê của Gates và Allen để cho ra đời chiếc máy tính cá nhân cuối cùng đã được chứng minh là đúng.

<First News biên dịch>



Bill Gates - đằng sau một ngai vàng (phần 4)
10/09/2007


Nhóm lập trình ban đầu của MicrosoftĐUỔI THEO ƯỚC MƠ

Sau khi Gates và Allen hứa với Roberts sẽ cung cấp một phần mềm cho máy tính Altair, Gates lao ngay tới cỗ máy mainframe tại Aiken Computer Center của Trường Harvard, trung tâm này chỉ dùng cho các dự án nghiên cứu của sinh viên chứ không phải cho các dự án thương mại.

Rời bỏ trường đại học danh tiếng

Vì cả hai không có một máy tính Altair 8080 để chạy thử nghiệm nên Gates và Allen phải cố gắng thu thập các chức năng của nó trên tờ tạp chí giới thiệu rồi giả lập lại các chức năng này trên máy tính lớn của Harvard.

Gates kể: “Chúng tôi chỉ dựa vào những điều mô tả trong tạp chí này, vì vậy nếu hiểu sai hoặc tài liệu viết sai thì công sức của chúng tôi coi như trôi sông trôi biển”.

Hai chàng trai làm việc miệt mài từ tháng hai đến tháng 3-1975 tại căn phòng ký túc xá của Gates để viết các mã lệnh. Sau đó, Allen bay ngay tới Albuquerque bang New Mexico (nơi đặt trụ sở của Công ty MITS) để biểu diễn chương trình thô này cho Roberts xem.

Chương trình đã làm việc tốt. Khi Allen trở về Harvard trong chiến thắng, hai người bạn đã ăn mừng bằng cách ra ngoài ăn kem và xôđa. Chàng trai Gates, lúc đó 19 tuổi, đặt mua một phim của nữ diễn viên nhí Shirley Temple.

Gates và Allen đã bán ngôn ngữ BASIC cho MITS với giá 3.000 USD cộng thêm tiền bản quyền.

Allen kể lại rằng khi quay lại New Mexico để phát triển tiếp chương trình - biến nó thành chuẩn công nghiệp trong sáu năm sau đó, anh thậm chí đã phải vay tiền của Roberts để thuê khách sạn ven đường bởi toàn bộ tiền anh có đã phải chi cho vé máy bay. Điều này đã gây ấn tượng mạnh với Roberts và ít lâu sau chàng trai Allen được trả mức lương tương đương với giám đốc phần mềm của MITS.

Tháng 6-1975, Gates xin phép tạm nghỉ học ở Harvard để đến làm việc cùng Allen. Mặc dù Gates trở lại trường vào mùa thu sau đó, nhưng trái tim và khối óc của anh đã để lại Albuquerque. Anh xin một giấy phép nghỉ học thứ hai và không bao giờ quay trở lại trường nữa.

“Cha mẹ tôi vô cùng bất ngờ khi thấy con trai mình bất chợt báo tin sẽ rời bỏ ngôi trường danh tiếng để theo đuổi một ngành kinh doanh mà phần lớn mọi người chưa từng nghe thấy bao giờ có tên là “máy vi tính”. Nhưng cha mẹ tôi là những người luôn hiểu và hỗ trợ tôi”.



Microsoft và ông chủ trẻ

Trước khi rời khỏi Albuquerque, Gates và Allen bắt đầu suy nghĩ đến việc đặt tên cho công ty của họ, đã có một vài tên được đem ra cân nhắc như Outcorporated Inc., Unlimited Ltd., Allen & Gates. Tên Micro-soft có vẻ là chọn lựa có thể hiểu được.

Khi cả hai đã vững vàng ở New Mexico, Gates và Allen tuyển mộ các thành viên cũ của nhóm lập trình Lakeside (và một số bạn bè khác), tên Micro-soft xuất hiện trong tiến trình đó. Khoảng thời gian họ chuyển địa điểm đến Seattle, dấu nối đã bị bỏ đi để trở thành Microsoft.

Mặc dù tỉ lệ hợp tác giữa Gates-Allen được thỏa thuận ban đầu là 50/50, sau đó Gates đã đề nghị tỉ lệ chia phần mới là 60/40 nghiêng về phía anh. Gates cho rằng như vậy là công bằng vì ngoài công việc từ các hợp đồng phụ, Allen còn được hưởng tiền lương từ MITS. Như một nhân viên của Microsoft, Gates làm việc chỉ trông vào tiền bản quyền.

Trong những năm mới thành lập, cách quản lý của Microsoft không được chặt chẽ. Cả Gates và Allen cùng làm tất cả mọi việc, mỗi việc một ít. Tuy nhiên, nhìn chung thì Allen tập trung vào công nghệ mới và sản phẩm, trong khi Gates thường dành sự quan tâm cho công việc làm ăn mới, các cuộc đàm phán và các hợp đồng kinh tế.
Dù rằng việc học ở Harvard trải qua không được suôn sẻ, nhưng Gates cho biết: “Tôi rất lo ngại khi nghe mọi người nói rằng một số bạn trẻ không muốn học đại học chỉ bởi vì họ thấy tôi cũng không tốt nghiệp đại học...

Có điều như vầy, mặc dù tôi không theo học đến nơi đến chốn ở đó nhưng việc học của tôi cũng tương đối khá. Ngoài ra, thế giới ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt hơn, mỗi năm một chuyên môn hóa và phức tạp hơn, vì vậy tốt nghiệp đại học của ngày hôm nay chỉ tương đương tốt nghiệp trung học tại thời điểm trước”.

Gates nói thêm: “Tôi yêu những năm học của tôi tại trường đại học. Và về nhiều phương diện, tôi tiếc là đã bỏ dở việc học hành. Sở dĩ tôi làm vậy chỉ vì trong đầu tôi nung nấu một ý tưởng - lập ra một công ty phần mềm vi tính đầu tiên - và điều đó thì không đợi được”.


Trong vòng 18 tháng, họ đã kiếm được cho công ty mới của mình hàng trăm nghìn USD qua việc viết chương trình cho Công ty Apple Computer Inc. và Commodore.

Một trong những điều làm Gates bực mình khi trở thành một ông chủ trẻ là anh không thể thuê ôtô vì chưa đủ 21 tuổi. Khi có việc phải đến liên hệ với Applied Digital Data Systems, công ty sản xuất các thiết bị đầu cuối ở Hauppauge, New York, Gates đã phải nhờ khách hàng cho người đưa xe đến sân bay để đón anh.

Allen, Gates và những người bạn trong nhóm lập trình cũ được thành lập lại vẫn tiếp tục sống và làm việc khác với lề thói bình thường, khác với những mô hình công ty khác. Đầu tiên, họ sống tại khách sạn ven đường Tumbleweed Motel bụi bặm, rồi để giảm chi phí, họ đã thuê một căn hộ ở chung với nhau.

Phần lớn thời gian họ dành cho việc lập trình, ăn bánh pizza, đi xem phim hoặc phóng xe vun vút trên sa mạc vào lúc nửa đêm trên chiếc xe Porsche của Gates. “Vâng, cuộc sống của chúng tôi là làm việc và có thể là đi xem phim, rồi lại về tiếp tục làm việc. Đôi khi khách hàng cũng đến tận nơi làm việc, và có lúc do quá mệt mỏi chúng tôi thường ngủ ngay trước mặt họ”.

Khoảng một tuần sau khi Miriam Lubow được thuê vào làm quản lý văn phòng, cô thấy một cậu bé tự động đi vào phòng của Gates mà Gates lúc ấy đang đi công tác xa. Đã được dặn trước rằng không ai có quyền bước vào căn phòng đó nếu không được phép, cô vội vàng chạy đi báo cho đồng nghiệp là Steve Wood biết. Và cô ta đã thật sự kinh ngạc khi biết rằng cậu bé đó chính là ông chủ của mình.

Có lẽ để cảnh báo một cách tế nhị cho các khách hàng về ông chủ trẻ của mình, Công ty Microsoft khi đăng quảng cáo trên các tạp chí điện tử thường dùng hình vẽ một nhân vật trẻ, Micro Kid, tuy nhỏ bé nhưng rất quyền năng.

Đến năm 1980, khi Microsoft lần đầu tiên được IBM - ông vua của ngành công nghiệp máy tính - đến tiếp xúc thì Gates mới 25 tuổi và nhân viên của Microsoft chỉ có 32 người.

Gates trông còn quá trẻ để có thể được ưng thuận, “Nhưng đây là một chàng trai khôn ngoan hơn tuổi đời của anh ta - một thiên tài trong lĩnh vực lập trình, một tài năng bẩm sinh trong kinh doanh, điều đó được thể hiện khi anh điều khiển được mối quan hệ của Microsoft với IBM sao cho có lợi nhất cho công ty” - một ủy viên ban quản trị IBM nói.

Khi IBM gọi điện tới để hẹn gặp Gates, họ yêu cầu cuộc hẹn phải xảy ra ngay ngày hôm sau. Gates đã nhanh chóng dời lại cuộc hẹn với Fred Kassar, chủ tịch Công ty trò chơi điện tử Atari. Quyết định này, cộng với vài quyết định khác sau đó, đã biến Gates thành tỉ phú khi mới 31 tuổi.

<First News biên dịch>


Nhà bác học vĩ đại trên chiếc xe lăn
23/08/2007
Trong thành phần khoa học gia hàng đầu của nhân loại hiện nay, GS Hawking nổi bật như vì sao bắc đẩu, duy nhất có tư cách đạt đến kết quả cuối cùng trong công cuộc khám phá và giải thích toàn bộ "Lịch sử cấu tạo vũ trụ.
Cái ước mơ bao đời của những người được mệnh danh là bác học đang trên đà hình thành trong ngày một ngày hai. Khi thế giới khoa học tiết lộ như thế, có nghĩa là kết quả đang ở trong tầm tay. Có điều kết quả đó lại chỉ ở trong tay một người. Người ấy không ai khác hơn là Stephen Hawking! Con người siêu phàm ấy gần như bất động hoàn toàn trên chiếc xe lăn từ hơn 40 năm qua.

Nếu như trước kia, nhà bác học Einstein cha đẻ của "Thuyết Tương Đối" mở đường cho con người đặt chân vào không gian, sử dụng nguyên tử với hạt nhân, thì giờ đây, người kế tục sự nghiệp của ông – nhà vật lý kỳ diệu Hawking lại quyết tâm kết hợp nó với "Lượng Tử Thuyết" (Théorie des Quanta) của chính ông, để tạo thành một kiệt tác định lý: "Đại Tổng Hợp Không Gian"

BÁC HỌC GIA STEPHEN HAWKING LÀ AI?

Cách đây hơn 40 năm, ông đã là nhà toán học phi thường, là tay bơi thuyền đua hữu hạng của đại học Oxford. Nhưng GS Hawking bất thần bị mắc chứng tê liệt bắp thịt. Buổi đầu ông phải chống gậy để di chuyển. Dần dà chứng bệnh càng nặng, kề cận cái chết. Không một bác nào dám quả quyết là GS Hawking có thể tiếp tục sống thêm trên cõi đời này. Chính ông biết rõ mình, đôi lúc tuyệt vọng.

Các nhà y học đã phải mổ cuống họng ông, và ông mất hẳn tiếng nói. Mỗi lần cơn ho chợt kéo đến thì toàn thân ông bị co quắp, quằn quại. Ông không khác một cái mền len được đưa lên cao rồi buông thả xuống chiếc ghế xe lăn di động. Nhà bác học chỉ có thể lắc lư nhẹ cái đầu và quơ quơ đôi bàn tay một cách vô thức. Họa hoằn lắm mới bắt gặp nụ cười vụng dại chợt đến, để lộ hai hàm răng rộng ở ông. Nhưng căn bệnh khủng khiếp đó không thể quật ngã ông. Hệ thống máy móc quan sát tinh vi cho biết bộ não ông không ngừng nghỉ.

Ngày nay, giới khoa học thế giới có niềm tin chắc chắn là không còn bao ngày nữa, GS Stephen Hawking sẽ tìm ra chiếc khóa vàng mở toang cánh cửa bí mật bao đời bị khép kín – cho phép thế giới khoa học nhìn thấu đến ngọn nguồn "vũ trụ". Và vì thế, nhà bác học Stephen Hawking phải được sống. Người ta đang dốc lòng cầu nguyện Thượng Đế ban ân lành gìn giữ ông. Bộ óc của ông thật vĩ đại nhưng cơ thể ông luôn trong tình trạng suy nhược. Đã có biết đến bao nhiêu là điều quan trọng ở trong ông đáng được cấp tốc phổ biến đến đội ngũ bác học mà trở ngại lại quá nhiều! Tuy nhiên con người lỗi lạc Stephen Hawking triền miên suy tư. Ông đã thảo nhiều bản thuyết trình được đánh giá là những viên ngọc quý, thường xuyên xuất hiện trước các bậc danh tài Âu Mỹ. Ông tỉ mỉ hệ thống hóa mọi phương trình toán học không gian vĩ đại nhất, giải thích về từng vần đề một vào máy điện tử, và chân thành tin tưởng: kết quả đang hiện ra. Nó không ở một mình ông mà từ một công cuộc chung giữa các đồng nghiệp khoa học gia, tiến tới phụng sự nhân loại

Cho dù cơ thể đã bị hủy hoại đến tột cùng của sự hủy hoại nhưng điều huyền diệu phi phàm ở nhà bác học Stephen Hawking mà người khác không thể có, không thể đạt được đó chính là tâm hồn ông luôn bay bổng trên trời cao vời vợi, ẩn ẩn hiện hiện hết hành tinh này sang hành tinh khác.

<Thuý Hà s

Stephen William Hawking - nhà vật lý lỗi lạc của thế kỷ 20
21/08/2007
Sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942 tại Oxford - Anh quốc, ở tuổi 20 Stephen Hawking là người đầu tiên giải thích được tính chất của Lỗ Đen. Một căn bệnh khủng khiếp đã cầm tù cả cuộc đời còn lại của ông trong bất động và câm lặng.

Nhưng những công trình nghiên cứu vĩ đại nhất về vũ trụ mà ông cống hiến cho loài người lại ra đời trong phần đời tê liệt ấy.

Học trường St- Albans lúc 11 tuổi, Hawking đã biết trước ông muốn học Khoa học. Năm 16 tuổi, Hawking đã cùng vài người bạn làm ra máy vi tính nguyên thủy mà bây giờ thực sự dùng được. Năm sau, ông được học bổng Ðại học Oxford. Tại đây, ông quyết định học Vật lý vì trường chưa có môn toán. Năm 1962 ông được đậu hạng danh dự. Sau đó ông tiếp tục học môn Vũ trụ học tại Ðại học Cambridge nơi đó ông dạy Toán (năm 1974 lúc 32 tuổi, như Newton cách đó 300 năm) và bắt đầu những công trình trên những định luật cai trị Vũ trụ. Ông hướng những công trình của ông vào sự nghiên cứu các Lỗ Ðen. Ông được nhận bằng tiến sĩ.

Năm 21 tuổi, một bất hạnh xảy đến, ông cảm nhận những triệu chứng đầu tiên gây ra bởi chứng teo cơ. Căn bệnh tác động vào những tế bào thần kinh ở não và dây thanh quản, dẫn đến suy yếu cơ, liệt và mất khả năng nói. Ông phải liên lạc bằng hệ thống vi tính bằng cách dùng một ngón tay bấm vào những chữ đã soạn sẵn. Một câu của ông là thành quả của sự suy nghĩ. Stephen Hawking đã cứu thoát mình bằng cách chạy trốn vào ước mơ tuổi thơ “Dù có bị giam hãm trong vỏ hạt dẻ, ta vẫn tự coi mình là chúa tể của không gian vô tận”.

Trong cuốn "Lược sử thời gian", nhà xuất bản Batam Books, 1987, Stephen Hawking có viết: Ngoại trừ căn bệnh liệt toàn thân, ở hầu hết các phương diện khác, tôi là một người may mắn. Nhờ sự giúp đỡ và hỗ trợ của vợ và các con mà tôi có thể sống gần như bình thường và có một sự nghiệp thành công. Tôi còn may mắn ở một điểm nữa là tôi đã chọn vật lý lý thuyết, vì tất cả chỉ được làm trong trí óc. Do đó bệnh tật của tôi không phải là một sự tàn phế quá nghiêm trọng.

Chính căn bệnh chết người mà ông phải chịu đựng đã cho ông thêm lý do để sống trên đời. “Bây giờ tôi hạnh phúc hơn là khi chưa bị bệnh”, “Vì không có nhiều thời gian để sống nên tôi muốn làm việc nhiều hơn nữa. Tôi ý thức được cuộc sống là quý giá…”. Ông nói như vậy trong lễ kỷ niệm sinh nhật của mình (8/1/1942 - 300 năm sau ngày mất của Galileo Galile), trước đông đảo học sinh, sinh viên và các nhà khoa học, nhân dịp đến Bombay (Ấn Độ) dự hội nghị khoa học “String 2001”.

Giờ đây, ở tuổi 65, tác giả cuốn sách “Lược sử thời gian”nổi tiếng vẫn ngồi đó, trên chiếc xe lăn, vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của mình. Người ta không hiểu sức mạnh nào đã giúp cho Hawking sống qua chừng ấy năm, không ngừng nghiên cứu, để rồi trở thành nhà bác học vĩ đại của thế giới. Công trình nghiên cứu bức xạ của lỗ đen của ông được giới khoa học hết sức khen ngợi và đánh giá cao. Ông đã được trao 12 bằng danh dự, rất nhiều giải thưởng, huân chương, là thành viên của Hội đồng Hoàng gia Anh và Viện Hàn lâm Khoa học Mỹ. Hiện tại, Hawking đang giữ một chức vụ quan trọng ở Đại học Cambridge. Hawking cho biết: “Trước khi mắc bệnh, tôi là một người chậm chạp và hay chán đời”. Bước vào tuổi thanh xuân, cái tin mình bị bệnh đã khiến ông “chẳng còn thiết gì nữa”. Nhưng giờ đây ông lại tin rằng mình đang “hạnh phúc hơn bất kỳ lúc nào trong thời gian 20 năm không bệnh tật”.

Hawking cho biết người ta thường xuyên hỏi ông: “Ông cảm thấy thế nào về căn bệnh của mình?”. Câu trả lời của nhà bác học là: “Không thấy gì nhiều. Tôi cố gắng sống càng bình thường càng tốt, không nghĩ về hoàn cảnh của mình, không nuối tiếc những việc mà bệnh tật đã khiến tôi không thể làm được”. Hawking khẳng định: “Rõ ràng có nhiều người còn khổ hơn tôi… Mỗi khi sắp sửa có ý than thân trách phận, tôi lại nghĩ đến điều đó”.

Có người hỏi "ông sẽ làm gì nếu không bị liệt?" Hawking đáp: “Tôi từng nghĩ mình sẽ trở thành một chính trị gia”. Ông còn nói đã từng mong ước được làm thủ tướng Anh. “Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi cảm thấy công việc của tôi chắc chắn sẽ lâu dài hơn so với công việc của một vị thủ tướng”.
“Con người không bao giờ được để mất hy vọng”- đó là những gì nhà bác học Anh vĩ đại đã viết trên Website của mình.

<Thuý Hà st>

Bùi Tiến Dũng: Người Việt mình không kém ai
05/02/2010

Sang Mỹ du học lúc 17 tuổi với hành trang chỉ vẻn vẹn một chiếc vali nhỏ và 150 USD nhưng ông Dũng đã trở thành người Việt thành công nhất ở tập đoàn máy tính lớn nước Mỹ.
Thông minh, sâu sắc và cũng cởi mở, thân thiện là cảm nhận của những ai từng tiếp xúc với Dzung T. Bùi (Bùi Tiến Dũng), Phó chủ tịch, phụ trách nhóm điều hành kinh doanh toàn cầu, tập đoàn Công nghệ Thông tin IBM (Mỹ).


Người Việt mình không kém ai
Đây là suy nghĩ và cũng là “hành trang” quan trọng nhất mà ông Dũng mang theo suốt con đường lập nghiệp nơi xứ người. Ông nói: “Tôi cho rằng, lòng tự tin là chìa khóa giúp mở mọi cánh cửa. Vì vậy, không có lý gì mình lại không tự trang bị cho mình một chiếc như thế”.
Ông Dũng sinh ra tại một ngôi làng cổ Bắc Bộ có tên là Trình Phố, thuộc xã An Ninh, Tiền Hải, Thái Bình. Lớn lên, ông theo cha mẹ vào TP HCM. Năm 17 tuổi, ông sang Mỹ du học với một chiếc vali nhỏ và số tiền ít ỏi 150 USD. Với suy nghĩ người Việt mình không kém ai, ông không ngại dấn thân trong mọi lĩnh vực. Để trang trải tiền ăn học, ông kiếm việc làm thêm từ bưng bê, dọn dẹp cho tới làm phát thanh viên cho một chương trình truyền thanh tiếng Việt.
Sau khi tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành kỹ thuật điện tử tại Đại học Minnesota, tiểu bang Minnesota (Mỹ), ông Dũng nộp đơn xin làm việc tại tập đoàn IBM và được nhận làm ở phòng thí nghiệm Rochester. Cũng lúc đó, ông gặp một người phụ nữ Việt, quê gốc Nam Định. Hai người nhanh chóng có tình cảm với nhau, cùng xây dựng hạnh phúc gia đình và đón người thân sang đoàn tụ.
Sau một năm lại việc tại Rochester, nhận thấy sở thích và năng lực bản thân phù hợp với lĩnh vực bán hàng, ông Dũng xin chuyển qua làm về martketing và tiêu thụ sản phẩm (sales). Cũng từ đó, ông liên tục được đề bạt và đảm nhiệm những trọng trách trong mảng kinh doanh sản phẩm của tập đoàn IBM, từ Phó chủ tịch phụ trách thị trường Mỹ Latin, Tổng giám đốc Sales và Marketing châu Âu, Giám đốc điều hành phụ trách chuỗi cung ứng, Tổng giám đốc phụ trách giải pháp công nghệ thông tin. Hiện ông là Phó chủ tịch phụ trách nhóm điều hành kinh doanh toàn cầu của tập đoàn IBM.
“Ở đâu tôi cũng luôn nhớ mình là người Việt Nam’
Xa quê hơn 30 năm, ông Dũng vẫn nói tiếng Việt thành thạo. Khi được hỏi điều gì đã giúp ông giữ được khả năng này, ông nói: “Chính bởi tôi luôn nhớ mình là người Việt Nam”.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng cố gắng sử dụng tiếng mẹ đẻ, như khi làm thơ, viết văn, khi trò chuyện với các con, thậm chí trong lúc lái xe, trao đổi với khách hàng. Ông tâm sự: “Trong lúc nói tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Tây Ban Nha, tôi luôn tự đối chiếu, những từ này tiếng Việt là gì nhỉ. Đó là cách tôi tự học tiếng Việt và giới thiệu với đối tác về ngôn ngữ của quê hương mình”.
Không chỉ cá nhân ông Dũng mà các thành viên trong gia đình ông vẫn giữ nguyên nếp sống của người Việt. Ông bảo: “Điều này rất quan trọng. Nó giúp các con tôi hiểu về nguồn gốc của mình”.
Gia đình ông vẫn duy trì nếp sinh hoạt: một ngày ba bữa cơm, không ăn thức ăn nhanh, không ăn bánh mì, trừ những dịp đặc biệt nào đó phải ra ngoài dùng bữa. Ngày Tết cũng có bánh chưng xanh, những món ăn cổ truyền. Ông dẫn các con đi xông đất, mừng tuổi ông bà, người thân, lên chùa thắp hương. Những cái giỗ ông bà, tổ tiên cũng được ông duy trì đều đặn. Bởi thế, sống giữa đất nước cờ hoa mà bản thân ông và bố mẹ vẫn cảm thấy như đang được sống ở chính nơi quê nhà. Bùi Tiến Dũng gọi đó là nếp nhà và trân trọng nó.
Cũng chính bởi luôn có ý thức về “chất Việt” trong mình mà khách đến thăm nhà ông, dù là căn hộ sang trọng ở tiểu bang NewYork hay ngôi nhà nhỏ, bình dị vùng đất vạn hồ Minnesota, đều tìm thấy một thứ gì đó thuộc về Việt Nam. Một bức tranh lụa kể về tích Truyện Kiều, những chiếc bình cổ, lọ hoa thời Nguyễn, chiếc giỏ mây xuất khẩu từ Việt Nam… là cái cớ để ông giới thiệu văn hóa, phẩm chất, cốt cách của người Việt.
“Tôi luôn xúc động khi trở về quê hương”
“Tôi rất hạnh phúc khi về tới Hà Nội”, ông Dũng chia sẻ về cảm xúc khi lần đầu về nước vào cuối năm 2008. “Từ tầng cao khách sạn nhìn xuống thành phố, tôi vẫn không tin rằng mình đang đứng đây, giữa lòng thủ đô đất mẹ thân yêu”, Bùi Tiến Dũng nói với giọng đầy cảm xúc.
Ông Dũng tâm sự: “Tôi ra đi từ khi còn quá trẻ đến độ không kịp một lần ra thăm thủ đô, vì thế ở nước Mỹ, tôi luôn có một giấc mơ là được trở về, tản bộ trên những phố phường Hà Nội. Tôi luôn muốn trải nghiệm những gì mà bố mẹ, người thân của tôi từng trải nghiệm”.
Nhưng trong lần trở về đó, vì công việc, ông chưa kịp thực hiện mong mỏi của mình. Vì vậy, trong chuyến về Việt Nam tìm hiểu thị trường công nghệ thông tin này, ngoài công việc, ông quyết tâm dành trọn phần thời gian còn lại để thực hiện những điều ao ước bấy lâu.
Gác lại những chuyến gặp gỡ, ông Dũng vận bộ đồ thể thao, cầm trên tay chiếc máy ảnh rồi để mình thỏa sức đắm chìm trong những bước chạy vòng quanh hồ Gươm, ghi lại hình mình bên Tháp Rùa cổ kính. Ông cũng dành thời gian rảnh của một tuần sang thăm và làm việc để lang thang nhiều góc phố, tìm mua cho được một bức tranh về phố cổ Hà Nội mang về Mỹ, giới thiệu với bạn bè. Bùi Tiến Dũng bảo, niềm tự hào về quê hương chưa bao giờ phai nhạt trong mình
Theo Vân Nhi – báo Đất Việt

Lý Nhã Uyên
Lý Nhã Uyên
Quản trị viên Thiên Pháp
Quản trị viên Thiên Pháp

Tổng số bài gửi : 75
Join date : 14/12/2011
Đến từ : Quận 1 ,TP Hồ Chí MInh

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết